Ngành vật liệu xây dựng bước chậm lại để tiến xa hơn

 

Hoạt động xây dựng đình trệ, thị trường bất động sản đóng băng khiến cho việc tiêu thụ vật liệu xây dựng (VLXD) giảm mạnh, lượng hàng tồn kho lớn. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh VLXD đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thậm chí có nguy cơ dẫn tới phá sản.

Tiến sĩ Lương Đức Long (ảnh),Phú Điền - Hình ảnh Tiến sĩ Lương Đức Long Viện trưởng Viện Vật liệu xây dựng, Bộ Xây dựng đã trao đổi với phóng viên về vấn đề này.

Xin ông cho biết, ngành VLXD hiện nay đang phải đối mặt với những khó khăn ra sao?

Có thể thấy về mặt chủ quan, tiềm lực tài chính của các doanh nghiệp trong ngành VLXD hiện không mạnh. Do tỷ lệ vốn vay trên tổng vốn đầu tư lớn, nên doanh nghiệp VLXD rất dễ bị ảnh hưởng khi thị trường tài chính có biến động. Thêm nữa, cũng vì tiềm lực tài chính yếu nên doanh nghiệp không đầu tư được các thiết bị tốt để sản xuất nên chất lượng và giá thành thiếu tính cạnh tranh. Ngoài ra, hoạt động quản lý sản xuất ở nhiều đơn vị còn chưa tốt dẫn tới chi phí cao, tiêu hao vật tư, thiết bị và năng lượng lớn.

Xét về mặt khách quan, giai đoạn này ngành sản xuất VLXD ở nước ta tuy có thị trường lớn nhưng không ổn định, lại chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và sự suy giảm của thị trường bất động sản trong nước. Đồng thời, do bị cạnh tranh gay gắt với các sản phẩm VLXD nhập ngoại, nhất là hàng Trung Quốc, tràn lan thị trường nên tình hình tiêu thụ VLXD giảm mạnh.

Có ý kiến cho rằng, ngành VLXD phát triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế, một phần là do công tác quy hoạch và quản lý quy hoạch chưa tốt. Ý kiến của ông về việc này ra sao?

VLXD là một trong những ngành được Nhà nước quan tâm phát triển. Ở cấp quốc gia, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể ngành VLXD. Các địa phương cũng có quy hoạch ngành công nghiệp VLXD… Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thêm Quy hoạch thăm dò và khai thác khoáng sản làm VLXD. Có thể nói, về tổng thể, ngành VLXD ngày càng phát triển có kế hoạch và được quản lý. Tuy nhiên, thời gian gần đây xảy ra hiện tượng cung vượt cầu ở một số mặt hàng như xi măng, gạch ốp lát, kính xây dựng… một phần là do tình trạng đầu tư quá nóng, các doanh nghiệp tư nhân và Nhà nước đều ồ ạt "nhảy" sang lĩnh vực này vì kỳ vọng vào thị trường lớn, tiềm năng nhiều. Bên cạnh đó, việc bổ sung quá nhiều dự án nằm ngoài quy hoạch đã làm tăng thêm sức ép về nguồn cung VLXD đối với thị trường.

Tuy nhiên, theo tôi, khi nền kinh tế phát triển nóng thì nhu cầu đầu tư nóng vào lĩnh vực VLXD là tất yếu. Vượt qua giai đoạn này, ngành VLXD phải giảm tốc độ tăng trưởng sẽ dẫn tới thừa công suất thiết kế. Không chỉ Việt Nam, bài toán này cũng được đặt ra với nhiều nước trong khu vực như Thái Lan đang thừa khoảng 40% công suất xi măng, Nhật Bản thừa khoảng 10% sản lượng xi măng dù không phát triển nóng, Trung Quốc có thể cũng sẽ thừa xi măng trong tương lai vì hiện tổng công suất thiết kế sản xuất xi măng đã lên tới 2,3 tỷ tấn/năm…

Xuất khẩu được tính tới như là một biện pháp để khắc phục tình trạng khủng hoảng thừa của ngành VLXD. Điều đó có mâu thuẫn với chủ trương hạn chế xuất khẩu VLXD là tài nguyên khoáng sản không thưa ông?

Nhiều ý kiến trái chiều liên quan tới vấn đề này vì VLXD là sản phẩm sử dụng nhiều tài nguyên, tiêu hao nhiều năng lượng, gây ô nhiễm môi trường mà giá trị kinh tế thấp. Tuy nhiên, trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay mà không xuất, nhập khẩu sẽ rất khó khăn. Vì xuất khẩu mang lại nhiều lợi ích, như tăng thu ngoại tệ để bù đắp vào việc nhập khẩu thiết bị; góp phần giảm sức ép dư cung khi tồn đọng để doanh nghiệp đảm bảo sản xuất và liên tục quay vòng vốn. Cũng nhờ xuất khẩu, các doanh nghiệp VLXD cũng có điều kiện tham gia thị trường quốc tế để cạnh tranh và trưởng thành về nhiều mặt.

Nhưng việc xuất khẩu cần được đặt ra cho phù hợp, cần lựa chọn để xuất khẩu những mặt hàng VLXD mang lại hiệu quả kinh tế và giá trị gia tăng lớn. Sản lượng xuất khẩu cũng nên cân đối với một tỷ lệ nhỏ, khoảng 10% so với tổng cầu nội địa. Xuất khẩu có thể là giải pháp tình thế đối với lĩnh vực xi măng, song đồng thời cũng là hướng đi ổn định và lâu dài đối với các mặt hàng VLXD khác.

Vậy ngành VLXD cần có bước phát triển như thế nào để phù hợp với xu thế hội nhập?

Có 7 ưu tiên cần làm ngay với ngành VLXD để đảm bảo phát triển ổn định, trong lâu dài. Đó là đầu tư, phát triển có kế hoạch, bám sát vào quy hoạch; cải tiến công nghệ, sản xuất để đạt được năng suất cao hơn, chất lượng tốt hơn, chi phí thấp hơn; nâng cao trình độ quản lý, điều hành của các doanh nghiệp; lựa chọn những mặt hàng có lợi thế cạnh tranh; chủ động tham gia thị trường quốc tế; quan tâm đến vấn đề môi trường, giảm phát thải, sử dụng tài nguyên hợp lý; sử dụng nguyên liệu là phế thải, nhiên liệu có thể tái tạo được và các nguồn năng lượng mới…

Trân trọng cảm ơn ông!

Ngọc Quỳnh (TTXVN)